会员登录 - 用户注册 - 设为首页 - 加入收藏 - 网站地图 【c2 lịch thi đấu】Việt Nam có nhiều giảng viên nữ hơn phương Tây!

【c2 lịch thi đấu】Việt Nam có nhiều giảng viên nữ hơn phương Tây

时间:2024-12-28 11:00:14 来源:Nhà cái uy tín 作者:Thể thao 阅读:363次

Là nữ giới cũng có nghĩa là chịu nhiều thiệt thòi trong sự nghiệp và tình trạng này đã tồn tại rất lâu. Nhưng trong thế kỉ 21,ệtNamcónhiềugiảngviênnữhơnphươngTâc2 lịch thi đấu tình trạng đó có được thay đổi theo chiều hướng tốt hơn? Một công trình phân tích thú vị mới công bố trên Scientometrics (tập san chuyên về đo lường khoa học mà tôi hay đọc) cho thấy trong môi trường đại học, nữ vẫn bị thiệt thòi hơn nam.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan và nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trao giải Kovalevskaia cho 2 nhà khoa học nữ - Ảnh: Chinhphu.vn
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan và nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trao giải Kovalevskaia cho hai nhà khoa học nữ. Ảnh: Chinhphu.vn

Ở Mỹ, cơ hội sự nghiệp khoa bảng ở nữ giới kém hơn đồng nghiệp nam giới. Nếu lấy cơ hội được đề bạt chức danh giáo sư (full professor) thì nữ khoa học Mỹ có xác suất thấp hơn nam. Chẳng những thấp hơn mà nữ giới có xu hướng rời sự nghiệp nghiên cứu hay giảng dạy trong đại học sớm hơn nam giới.

Ở Thuỵ Điển, tình trạng thiệt thòi ở nữ giới không khá hơn Mỹ. Chứng cứ mà các nhà nghiên cứu đi đến kết luận được thu thập từ dữ liệu về nhân sự của các trường đại học Thuỵ Điển. Thuỵ Điển được xem là môi trường lí tưởng cho nghiên cứu loại này, vì quốc gia này được đánh giá là một trong những nước có bình đẳng giới tính cao nhất trên thế giới. Thật vậy, năm 2008, OECD xếp Thuỵ Điển hạng 3 trên thế giới về bình đẳng giới tính.

Tỉ lệ nữ giới trong đại học

Số liệu về giảng viên đại học và nhà nghiên cứu (có bằng tiến sĩ) của tất cả đại học Thuỵ Điển cho thấy, năm 2010 nữ giới chiếm 36%. Tỉ lệ này vào năm 1995 chỉ 20%. Nói chung tỉ lệ nữ trong “lực lượng” giảng viên đại học tăng dần theo thời gian.

Cơ hội đề bạt

Tính chung, hai tác giả của báo cáo phát biểu rằng xác suất nữ được đề bạt chức danh giáo sư (full professor) thấp hơn nam đến 37%. Nhưng tỉ lệ này không phải bất biến, mà còn tuỳ thuộc vào thời gian sau khi tốt nghiệp tiến sĩ và có qua giai đoạn hậu tiến sĩ hay không.

Bảng 1: Xác suất được đề bạt giữa nam và nữ giảng viên Thụy Điển

Số năm sau khi tốt nghiệp tiến sĩ

Chưa qua hậu tiến sĩ

Đã qua hậu tiến sĩ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

5

0.10

0.05

0.10

0.10

10

0.30

0.18

0.50

0.40

15

0.42

0.35

0.75

0.75

 

Số liệu bảng trên cho thấy trong nhóm chưa qua giai đoạn hậu tiến sĩ, nữ có xác suất được đề bạt thấp hơn nam, nhưng khoảng cách có vẻ hẹp sau 15 năm tốt nghiệp tiến sĩ. Chẳng hạn như xác suất mà nữ chưa qua hậu tiến sĩ được đề bạt (bất cứ chức danh nào) sau 5 năm chỉ 5%, và xác suất này chỉ bằng phân nửa nam giới; tuy nhiên, sau 15 năm thì xác suất nữ được đề bạt tăng lên 35 nhưng vẫn thấp hơn nam (42%).

Nhưng kết quả trên cho thấy trong nhóm đã qua hậu tiến sĩ, xác suất được đề bạt giữa nữ và nam không khác nhau đáng kể. Nếu có khác nhau thì chỉ ghi nhận trong thời gian sau 10 năm tốt nghiệp tiến sĩ, khi nam có xác suất đề bạt là 50%, cao hơn nữ 10%.

Còn ở Việt Nam thì sao?

Số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy một xu hướng thú vị tích cực (Bảng 2). Năm 1999, trong số 22.606 giảng viên và giáo sư đại học (sẽ gọi tắt là “giảng viên”), có 7.697 nữ, tức chiếm khoảng 1/3 tổng số. Tỉ lệ nữ giảng viên tăng liên tục trong thời gian 1999 và 2010. Đến niên học 2010-2011 thì số nữ giảng viên đã lên đến gần phân nửa (46%) tổng số giảng viên đại học.  

Bảng 2: Tỉ lệ nữ trong số giảng viên và giáo sư đại học 1999-2010

Năm

Tổng số giảng viên

Số nữ giảng viên

Tỉ trọng nữ giảng viên (%)

1999

22606

7697

34

2000

24362

8635

35

2001

25546

9210

36

2002

27393

10105

37

2003

28434

10680

38

2004

33969

12943

38

2005

34294

13575

39

2006

38137

16214

42

2007

38217

16459

43

2008

41007

18185

44

2009

45961

20849

45

2010

50951

23306

46


Nhưng tỉ lệ nữ giảng viên đại học có khác với tỉ lệ giảng viên cao đẳng? Số liệu Bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy một bức tranh khác: tỉ lệ nữ giảng viên cao đẳng còn cao hơn tỉ lệ ở bậc đại học. Niên học 2010-2011 có 23.622 giảng viên cao đẳng và trong số này có 12.051 nữ giảng viên, chiếm hơn phân nửa (51%) tổng số giảng viên cao đẳng. Khác với bậc đại học, tỉ lệ giảng viên nữ từ năm 1999 đến nay chỉ dao động trong khoảng 49-51%.

Dựa vào xu hướng tỉ lệ giảng viên cao đẳng và đại học, có thể rút ra hai nhận xét chính:

Thứ nhất, càng lên cao thì tỉ lệ giảng viên nữ càng thấp.

Thứ hai,  xu hướng đáng mừng là số nữ giảng viên đại học tiếp tục tăng theo thời gian. Điều đáng chú ý là tỉ lệ nữ giảng viên đại học Việt Nam cao hơn so với Thuỵ Điển (46% và 36%). Những con số này có vẻ phù hợp với giả thuyết rằng ở Việt Nam nữ không bị thiệt thòi như đồng nghiệp phương Tây.

GS Nguyễn Văn Tuấn 

(Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan và Đại học New South Wales, Úc) 

(责任编辑:Nhà cái uy tín)

相关内容
  • Khuyến cáo xuất khẩu chè sang Liên minh châu Âu đảm bảo quy định
  • Điều động, bổ nhiệm nhân sự 4 địa phương
  • Đội phản ứng nhanh Bệnh viện Chợ Rẫy hỏa tốc tới Bắc Giang hỗ trợ dập dịch Covid
  • Bảo vệ trẻ em trước tác động của ngành công nghiệp thuốc lá
  • Khai trương Điểm kết nối cung
  • Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Việt Nam luôn coi Anh là đối tác hàng đầu
  • Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc: Các tổ chức Liên Hợp quốc là những người bạn quý báu
  • Chủ tịch Hà Nội: Phải đập nhà 8B Lê Trực cũng đập, chủ đầu tư rất cùn
推荐内容
  • Giảm 1,2% giá trị xuất khẩu thủy sản 8 tháng năm 2019
  • Hà Nam: Phát động Cuộc thi viết tìm hiểu về gia đình Việt Nam
  • Bí thư Thành ủy Hà Nội Đinh Tiến Dũng: Chưa xem xét giãn cách toàn thành phố
  • Me Since 1988 tổ chức Ngày hội gia đình “Vòng tay yêu thương”
  • Nhà phố truyền thống có còn là kênh đầu tư hiệu quả?
  • Mỹ tái khẳng định vẫn xúc tiến hội nghị thượng đỉnh với Nga