会员登录 - 用户注册 - 设为首页 - 加入收藏 - 网站地图 【bong da 365】Từ vụ nước sông Đà nhiễm độc: Nước như thế nào là đủ chuẩn dùng cho ăn uống?!

【bong da 365】Từ vụ nước sông Đà nhiễm độc: Nước như thế nào là đủ chuẩn dùng cho ăn uống?

时间:2024-12-27 19:54:48 来源:Nhà cái uy tín 作者:Cúp C2 阅读:691次

Thời gian qua,ừvụnướcsôngĐànhiễmđộcNướcnhưthếnàolàđủchuẩndùngchoănuốbong da 365 dư luận hết sức quan tâm đến vụ việc nguồn nước sông Đà bị ô nhiễm dầu thải, khiến cuộc sống của hàng triệu người bị đảo lộn. Bên cạnh việc chờ đợi doanh nghiệp cấp nước cùng cơ quan chức năng có giải pháp thanh lọc nguồn nước, người dân tại Hà Nội cũng đã chủ động tìm kiếm những nguồn nước ăn uống khác trên thị trường để đảm bảo nhu cầu sinh hoạt, trong đó, phổ biến nhất là nước sạch đóng bình, đóng chai.

Mặc dù theo kết quả thử nghiệm mới nhất được Công ty Cổ phần Đầu tư nước sạch sông Đà công bố, nguồn nước sạch đã có chuyển biến tốt hơn. Tuy nhiên, cơ quan chức năng Hà Nội vẫn đưa ra khuyến cáo nước chỉ dùng cho sinh hoạt (tắm rửa, vệ sinh) chứ không nên dùng trong ăn uống.

Lúc này, dư luận không khỏi thắc mắc về việc liệu nước như thế nào được coi là nước sạch? Nước có những chỉ tiêu cơ bản ở mức nào thì được coi là nước “chuẩn” dùng cho ăn uống?

Theo bà PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hương, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế (Bộ Y tế), để kiểm soát nước ăn uống và nước sinh hoạt, Bộ Y tế soạn thảo và Bộ Khoa học và Công nghệ đã lần lượt ban hành QCVN 01:2009/BYT-Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước ăn uống và QCVN 02:2009/BYT-Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước sinh hoạt.

Đối với QCVN 01:2009/BYT, quy chuẩn này quy định về chất lượng nước ăn uống được Bộ Y tế ban hành năm 2009 với 109 chỉ tiêu, trong đó có 15 chỉ tiêu chất lượng nhóm A (tần suất giám sát 1 tháng/lần); 16 chỉ tiêu chất lượng nhóm B (tần suất giám sát 6 tháng/lần) và 78 chỉ tiêu chất lượng nhóm C (tần suất giám sát 2 năm/lần).

Đối với QCVN 02:2009/BYT, quy chuẩn này quy định mức giới hạn các chỉ tiêu chất lượng đối với nước sử dụng cho mục đích sinh hoạt thông thường với quy mô nhỏ.

Trong quá trình áp dụng các quy chuẩn này kể từ khi ban hành tới nay đã gặp phải một số tồn tại cần khắc phục. Trong đó, việc phân theo nước ăn uống và nước sinh hoạt là không cần thiết, bởi trong thực tế là khó có thể xác định một cách rõ ràng hai mục đích sử dụng này. Mà ngược lại, nước sinh hoạt thường được sử dụng luôn làm nước ăn uống tại các hộ gia đình.

QCVN 01:2009/BYT đang quy định quá nhiều chỉ tiêu/thông số bắt buộc phải giám sát đối với chất lượng nước thành phẩm, tuy nhiên, các Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh/thành phố, các công ty cấp nước chỉ tập trung vào kiểm tra chất lượng nước cuối đường ống (tại các hộ gia đình), nên việc áp dụng theo QCVN 01:2009/BYT dường như không khả thi với nhiều tỉnh/thành do lượng mẫu phải phân tích nhiều, vượt quá khả năng về nhân lực và kinh phí của các đơn vị.

Một số đơn vị sản xuất và cung cấp nước ăn uống cũng không có khả năng phân tích tất cả 109 chỉ tiêu theo quy định. Ngoài ra, các chỉ tiêu chất lượng nước ăn uống này không giúp họ kiểm soát. Bên cạnh đó, hầu hết các Trung tâm Y tế Dự phòng/Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh/thành phố chưa có đủ năng lực để phân tích toàn bộ 109 chỉ tiêu nước, đặc biệt là các chỉ tiêu 2 nhóm B và C. Đồng thời, nhiều kết quả phân tích trong nhiều năm đã không phát hiện sự hiện diện của một số chỉ tiêu được quy định trong QCVN.

Bên cạnh đó, việc quy định tới 109 chỉ tiêu bắt buộc phải phân tích theo QCVN 01:2009/BYT đã tạo ra gánh nặng chi phí cho người sử dụng nước, hơn nữa, chi phí này nhiều khi được xem là sự lãng phí khi rất nhiều chỉ tiêu không được phát hiện trong nước ăn uống thành phẩm mà vẫn phải phân tích xác định nồng độ hàng năm.

Ngoài ra, về mặt kỹ thuật trong QCVN 01:2009/BYT đang yêu cầu áp dụng chuẩn xác (áp dụng cứng) phương pháp thử cho mỗi thông số xét nghiệm, do vậy không phù hợp với thực tế khoa học kỹ thuật phát triển thì các phương pháp thử quy định cũng sẽ thay đổi theo. Điều này đã gây lung túng cho người áp dụng QCVN 01:2009/BYT hiện hành.

Với QCVN 02:2009/BYT, việc chỉ quy định 14 chỉ tiêu so với 109 chỉ tiêu của QCVN 01/2009/BYT nghiễm nhiên đã cho phép loại nguồn nước này có thể kém sạch hơn nước uống hoặc với các cơ sở cung cấp nước sinh hoạt có công suất lớn hơn 1.000m3 /ngày đêm. Điều này là không công bằng trong hoạt động cấp nước và quyền được tiếp cận nguồn nước chất lượng của người dân ở những nơi không có sự phân biệt rõ ràng giữa chất lượng trong thực tế kiểm tra, giám sát theo QCVN 02:2009/BYT cũng xuất hiện ít nhiều điểm chưa phù hợp về việc áp dụng giới hạn tối đa cho phép nào hay áp dụng QCVN nào đối với những trạm cấp nước tập trung có công suất < 1.000m3 /ngày đêm nhưng cho các khu đô thị, dân cư để phục vụ cho mục đích ăn uống, sinh hoạt.

Ảnh minh họa. 

(责任编辑:World Cup)

相关内容
  • Xanh hóa và số hóa: Động lực thúc đẩy công nghiệp phụ trợ ngành dệt may
  • Việt Nam, Saudi Arabia seek stronger cooperation
  • Việt Nam urges nuclear non
  • Việt Nam, Japan deepen comprehensive strategic partnership
  • Mại dâm ở nước ngoài: Những điều chưa biết!
  • Việt Nam – good model for developing countries: UN Secretary
  • Việt Nam, France to boost cooperation in defence and security, trade, energy transition
  • President Thưởng attends the opening of third Belt and Road Forum for Int’l Cooperation in Beijing
推荐内容
  • Còn 4 ngày nữa để trở thành tỷ phú khi giải khát với Trà Dr Thanh, Trà Xanh Không Độ, Number 1
  • Report on mutual legal assistance activities in 2023 sent to National Assembly
  • Việt Nam, Cambodia tighten bilateral relations
  • Việt Nam attends 23rd International Meeting of Communist and Workers' Parties
  • Nhiều công ty khởi nghiệp sẽ mong đợi được VinVentures đồng hành
  • PM arrives in Riyadh for attendance at ASEAN