【keo ti le】“Hóa giải” cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng toàn cầu
Đồng thời,óagiảicuộckhủnghoảngchuỗicungứngtoàncầkeo ti le được thúc đẩy bởi sự bùng nổ thương mại điện tử, giá cước vận chuyển container đang đạt mức cao kỷ lục và năng lực vận tải đang được duy trì tại các cảng tắc nghẽn. Điều này thể hiện một cú sốc kép đối với các nước đang phát triển xa các trung tâm sản xuất toàn cầu, với các đảo nhỏ đang phát triển (SIDS) và các nước kém phát triển nhất bị ảnh hưởng nhiều nhất. Ngoài việc làm gián đoạn việc cung cấp vắc xin cần thiết và nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng, cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng có thể làm tăng mức giá tiêu dùng toàn cầu thêm 1,5 điểm phần trăm do chi phí vận tải biển tăng lên, theo Đánh giá mới nhất của UNCTAD về Vận tải Hàng hải. Tác động lên giá cả trong SIDS cao hơn gấp 5 lần, với mức lạm phát giá tiêu dùng cộng thêm 7,5 điểm phần trăm.
Điều gì đã gây ra cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng?
Về phía cầu, thương mại điện tử ngày càng phát triển và các gói kích thích kinh tế đã gây thêm áp lực lên các hãng vận tải, cảng và các nhà cung cấp vận tải đa phương thức. Về phía nguồn cung, đại dịch đã làm chậm lại hoạt động ở tất cả các cấp. Một container hiện dành nhiều hơn 20% thời gian trong hệ thống cho một giao dịch thương mại điển hình và các tàu, xe kéo và container bị mắc kẹt tại các cảng tắc nghẽn. Điều này có nghĩa là thế giới cần thêm năng lực vận tải và thiết bị cho cùng một khối lượng thương mại - nhưng điều này cần thời gian để xây dựng và mua sắm. Sự tắc nghẽn đang làm tổn hại đến thương mại và đe dọa khát vọng phát triển bền vững. Trong ngắn hạn, chỉ có cải thiện hiệu suất của các cơ sở hiện có mới có thể giảm bớt.
Cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng là do tồn đọng ở các trung tâm chuỗi cung ứng lớn. Nó gần như chắc chắn sẽ tiếp tục kéo dài đến năm 2022, ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại và định hình lại dòng chảy thương mại trên toàn thế giới. Căng thẳng địa chính trị đang diễn ra giữa một số nền kinh tế lớn có thể dẫn đến các cuộc đối đầu thương mại mới, với những tác động quan trọng đối với chuỗi cung ứng toàn cầu khi các quốc gia có thể di chuyển sản xuất đến các địa điểm gần hơn về mặt địa lý và chính trị. Ngoài ra, các hiệp định như Khu vực Thương mại Tự do Lục địa Châu Phi và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực được kỳ vọng sẽ ảnh hưởng đến các mô hình thương mại toàn cầu. Thương mại khu vực trong châu Phi và trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương dự kiến sẽ tăng, nhưng cũng do chuyển hướng thương mại ra khỏi các tuyến đường khác.
Tăng khả năng phục hồi trong chuỗi cung ứng
Rất lâu trước COVID-19, các công nghệ của Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đã mang lại sự tái tổ chức các chuỗi giá trị toàn cầu liên quan đến việc di dời sản xuất một cách đáng kể. Đại dịch đã đẩy nhanh những xu hướng này, vì khả năng phục hồi và độ tin cậy của sản xuất ngày càng trở nên quan trọng hơn, đồng thời cả tự động hóa và "reshoring" (đưa sản xuất trở lại quốc gia xuất xứ) cho phép điều chỉnh linh hoạt hơn để thay đổi nhu cầu, giảm thiểu rủi ro của các công ty trong sự kiện đại dịch hoặc các cú sốc bên ngoài khác. Để giải quyết cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng, các nước đang phát triển có cơ hội phát triển và củng cố các chuỗi giá trị khu vực thông qua các hiệp định khu vực. Những điều này có thể đảm bảo rằng các công ty nhỏ hợp tác để giảm chi phí giao dịch và hưởng lợi từ hiệu quả kinh tế theo quy mô.
Sản xuất ở các nền kinh tế đang phát triển cũng cần nguồn tài chính dài hạn. Ở những quốc gia có khả năng phát triển các trung tâm sản xuất trong khu vực, các công ty có thể không thể tận dụng các cơ hội trong chuỗi giá trị hoặc mở rộng quy mô sản xuất khi nhu cầu tăng cao, vì thiếu vốn với giá cả phải chăng. Các ngân hàng phát triển khu vực và quốc gia cần đóng một vai trò mạnh mẽ hơn trong việc này, thông qua các thỏa thuận khu vực và thỏa thuận Nam-Nam mới. Hội nhập khu vực không chỉ có thể làm tăng dòng chảy thương mại mà còn có thể tạo điều kiện cho thay đổi cơ cấu, vì các doanh nghiệp địa phương có thể dễ dàng xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng cao hơn vào thị trường khu vực so với quốc tế. Hội nhập kinh tế thông qua các hiệp định thương mại cũng có thể thúc đẩy khả năng phục hồi: nghiên cứu gần đây của UNCTAD cho thấy thương mại trong các hiệp định thương mại đã tương đối linh hoạt hơn trước sự suy thoái thương mại toàn cầu COVID-19.
Đồng thời, quá trình số hóa theo đại dịch đòi hỏi các quốc gia phải ưu tiên đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và chuỗi cung ứng. Việc số hóa các cảng và các cơ quan biên giới công cộng là một trường hợp điển hình. Tự động hóa hải quan, xử lý dữ liệu trước khi đến cảng, tối ưu hóa lượt ghé cảng và các giải pháp kỹ thuật số khác có thể giúp tăng tốc độ xử lý cảng và hoạt động hải quan.
Tương lai của chuỗi cung ứng
Cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng đã cho thế giới thấy được một cuộc khủng hoảng khí hậu sẽ như thế nào nếu không được kiểm soát. Một thảm họa khí hậu toàn cầu sẽ làm giảm tác động của đại dịch. Hậu quả của nó sẽ được đặc biệt cảm nhận bởi các nền kinh tế đang phát triển vốn đã phải chịu thiệt hại kinh tế tương đối lớn gấp ba lần so với các nước có thu nhập cao do các thảm họa liên quan đến khí hậu. Báo cáo Thương mại và Phát triển mới nhất của UNCTAD kêu gọi một cách tiếp cận biến đổi để thích ứng với khí hậu, với các chính sách công nghiệp xanh để thúc đẩy tăng trưởng và tạo việc làm theo các chuỗi giá trị xanh hơn và linh hoạt hơn.
Một chính sách công nghiệp xanh cần chủ động xác định các lĩnh vực có những hạn chế đáng kể nhất đối với đầu tư thích ứng với khí hậu, chuyển đầu tư trong nước và nước ngoài vào các hoạt động này và giám sát xem các khoản đầu tư này có được quản lý theo cách duy trì việc làm ổn định và tăng an ninh khí hậu và năng suất dài hạn hay không. Thế giới cần đầu tư công quy mô lớn để xây dựng một nền kinh tế các-bon thấp đa dạng, sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo và công nghệ xanh. Các cuộc hội đàm tại COP26 được tổ chức ở Glasgow vào tháng 11 năm ngoái đã nhấn mạnh tính cấp thiết của việc mở rộng quy mô tài chính thích ứng và khí hậu và cung cấp 100 tỷ đô la đã cam kết hàng năm. Các ước tính cho thấy chi phí thích ứng với khí hậu hàng năm ở các nước đang phát triển có thể lên tới 300 tỷ USD vào năm 2030 và nếu các mục tiêu giảm thiểu bị vi phạm, sẽ lên tới 500 tỷ USD vào năm 2050.
(责任编辑:Cúp C1)
- ·Điểm khác nhau giữa Apple iAd, Google và Facebook Ads
- ·Thanh Thảo: Chồng không biết tôi là ca sĩ lúc mới quen
- ·Người mẫu bị sát hại dã man ở tuổi 28
- ·Giá thịt lợn tại chợ dân sinh tăng 5.000 đồng
- ·Bắt giam tài xế xe tải gây tai nạn khiến nữ du khách tử vong
- ·Hà Nội bác tin đồn vỡ đê ở huyện Sóc Sơn
- ·Chứng khoán BOS được cấp phép kinh doanh chứng khoán phái sinh
- ·'Hoa hậu chuyển giới đẹp nhất Thái Lan' khóc trong lễ cưới với chồng doanh nhân
- ·Khai mạc Chợ Tết Công đoàn
- ·Công chức lãnh đạo, quản lý có thể được bổ nhiệm lại với số lần không hạn chế
- ·Hải quan Lào Cai “nâng bước” cho nông sản xuất ngoại
- ·Triển vọng tiêu thụ ngô trong sản xuất ethanol sẽ là yếu tố hỗ trợ đà tăng của giá
- ·Giá cà phê ngày 9/11 tiếp tục sụt giảm
- ·Giá cà phê ngày 29/11: Biến động trái chiều ở hai sàn quốc tế
- ·Chứng khoán ngày 3/1: Nhóm ngân hàng và chứng khoán lao dốc, VN
- ·Ngắm vẻ đẹp 'thần tiên tỷ tỷ' của hoa hậu Đặng Thu Thảo
- ·Giá sắt thép ngày 5/11: Giá thép giảm, quặng sắt tăng
- ·Bộ TT&TT chủ động cung cấp thông tin cho báo chí về hội nhập và UNESCO
- ·Tác chiến điện tử của Nga khống chế hiệu quả làn sóng điện của địch
- ·TP. Hồ Chí Minh tổ chức khuyến mãi tập trung để kích cầu mua sắm cuối năm