【lịch thi đấu vilich hôm nay】Nâng cao năng lực quản lý tài chính để quản lý tốt nợ công
Hiện nay,ângcaonănglựcquảnlýtàichínhđểquảnlýtốtnợcôlịch thi đấu vilich hôm nay WB và Bộ Tài chính đang tiếp tục thực hiện chương trình GDRM giai đoạn 2. Một trong những nội dung của chương trình này là xây dựng khung hoạt động cải cách trong lĩnh vực quản lý nợ công. Xin ông cho biết khung cải cách này tác động như thế nào đến quá trình quản lý nợ công ở Việt Nam?
WB rất vui khi nhận lời hỗ trợ Bộ Tài chính cũng như Việt Nam xây dựng lộ trình dài hạn về cải cách công tác quản lý nợ công để làm sao công tác quản lý nợ công được minh bạch, hiệu quả, phù hợp. Mục tiêu của chúng tôi là đưa ra tầm nhìn dài hạn để công tác quản lý nợ của Việt Nam tiệm cận thông lệ tốt của quốc tế.
Với tầm nhìn như vậy, trong khuôn khổ hợp tác, chúng tôi phối hợp với Chính phủ Việt Nam và Bộ Tài chính xây dựng những lộ trình với những kết quả cụ thể trên các lĩnh vực khác nhau về quản lý nợ công để làm sao thực hiện được mục tiêu đó. Ví dụ như phương diện quản trị nợ công như nào, quản lý nợ Chính phủ ra làm sao, quản lý nợ chính quyền địa phương như thế nào… Với mỗi vấn đề đó, chúng tôi sẽ đưa ra lộ trình, bước đi cụ thể trong ngắn hạn, trong dài hạn, trong 3 năm tới sẽ như thế nào và trong 5 năm tới chúng ta sẽ đi tới đâu.
Một điều nữa tôi cũng chia sẻ rằng Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nước vay nhiều ODA sang nước tiếp cận các nguồn vay có tính chất thị trường nhiều hơn. Do vậy, Việt Nam phải nâng cao năng lực để tiếp tục thực hiện công tác quản lý nợ công, huy động vốn vay nợ công cho hiệu quả. Với tư cách là đối tác của Bộ Tài chính và đối tác 3 bên giữa Bộ Tài chính – WB và các nhà tài trợ khác, chúng tôi mong muốn tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc nâng cao năng lực quản lý nợ công trong giai đoạn chuyển đổi này.
Giai đoạn 2015 – 2018, Chương trình GDRM đã hoàn thành hỗ trợ đánh giá 5 năm thực hiện Luật Quản lý nợ công cùng với quá trình hỗ trợ xây dựng Luật Quản lý nợ công trình Quốc hội ban hành; hoàn thành hỗ trợ xây dựng chiến lược, chương trình quản lý nợ trung hạn, báo cáo Quốc hội về mục tiêu, định hướng huy động sử dụng vốn vay và quản lý nợ công giai đoạn 2016-2020; hỗ trợ xây dựng một số quy trình nghiệp vụ và các nội dung hỗ trợ về quản lý rủi ro, tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan,... Giai đoạn 2019-2022, WB và Bộ Tài chính sẽ phối hợp xây dựng và hoàn thiện khung hoạt động cải cách trong quản lý nợ công, xây dựng Chương trình GDRM giai đoạn 2, cập nhật Chương trình quản lý nợ trung hạn 2019-2025,… |
Như ông vừa chia sẻ, giai đoạn hiện nay rất quan trọng trong công tác quản lý nợ công của Việt Nam bởi Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nước vay nhiều ODA sang nước tiếp cận các nguồn vay có tính chất thị trường. Vậy trong quá trình chuyển đổi này, Việt Nam phải đối mặt với những rủi ro gì, thưa ông?
Nhiều nước cũng như Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi này gặp khá nhiều khó khăn do phải tiếp cận nhiều hơn nguồn vay kém ưu đãi và tiệm cận với thị trường. Ở đây có những thách thức lớn mà quan trọng nhất là phải nâng cao năng lực quản lý tài chính, năng lực tiếp cận thị trường, hiểu biết thị trường và phát triển thị trường vốn trong nước cũng như khả năng tiếp cận thị trường vốn quốc tế để đáp ứng nhu cầu vay của Chính phủ.
Với vai trò là định chế toàn cầu, WB đã có kinh nghiệm của nhiều quốc gia, do vậy, trong khuôn khổ hợp tác với Bộ Tài chính, chúng tôi sẽ hỗ trợ Việt Nam thực hiện giai đoạn chuyển đổi này một cách vững chắc và đạt được mục tiêu của chính phủ về quản lý nợ.
Hiện nay, ở Việt Nam, trong cơ cấu nợ của Chính phủ, tỷ trọng dư nợ trong nước chiếm khoảng 60% và nợ nước ngoài khoảng 40%. Theo ông tỉ lệ nào là “đẹp” cho Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi này?
Trên thực tế khó có thể nói có một tỉ lệ nào là tỉ lệ “đẹp” nhất vì điều này phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia. Như ở Việt Nam, định hướng hiện nay đang rất đúng là chuyển dần từ phụ thuộc nhiều từ vay nước ngoài sang vay trong nước. Các quốc gia khác nhau xác định tỉ lệ khác nhau và có chiến lược khác nhau. Để xác định tỉ lệ này phải tính đến đặc điểm của các khoản nợ.
Ví dụ ở Việt Nam, phần lớn khoản nợ là nợ vay dài hạn của các tổ chức tài chính quốc tế với điều kiện vay ưu đãi, thời hạn vay dài, lãi suất thấp thì rõ ràng Việt Nam có lợi thế trong việc quản lý được rủi ro về tỉ giá cũng như rủi ro về nợ nước ngoài. Nhưng nhiều nước, khi người ta mong muốn giảm nợ nước ngoài nhanh và tập trung vào nợ trong nước dẫn đến việc giải quyết được vấn đề rủi ro tỉ giá nhưng lại gặp rủi ro khác là áp lực trả nợ. Do vậy khi đưa ra tỉ lệ cần dựa trên đặc điểm của từng quốc gia.
Xin cảm ơn ông!
(责任编辑:World Cup)
- ·SeABank đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng đạt mức 15% trong năm 2025
- ·Công thức làm cánh gà cuộn dăm bông ngon miễn chê
- ·Tết Mậu Tuất đến đảo thần tiên Nam Phú Quốc
- ·Lưu giữ vẻ đẹp truyền thống của nhà sàn dân tộc Thái Tây Bắc
- ·Nga ra mắt mẫu máy bay chiến đấu Su
- ·"Kong" thu về 142,6 triệu USD toàn cầu sau tuần đầu công chiếu
- ·Khai mạc Liên hoan hữu nghị nhân dân Việt Nam
- ·Mở tuyến du lịch đầu tiên ra đảo Cồn Cỏ trong tháng tư
- ·Tỷ giá hôm nay (4/1): Đồng USD thế giới quay đầu giảm, “chợ đen” tăng nhẹ
- ·Đốt vàng mã
- ·Sạc nhanh pin điện thoại bằng một vài thủ thuật
- ·Sắc xuân từ những biểu ngữ, cờ Đảng, cờ Tổ quốc
- ·LHQ đưa ra bộ tiêu chuẩn đánh giá mức độ lãng phí lương thực
- ·Có phải “một sự nhịn” thì “chín sự lành”!?
- ·Cầu 420 tỷ nối Đồng Nai với Bình Dương sau 9 tháng thi công
- ·Hò khoan Lệ Thủy được công nhận là di sản văn hóa quốc gia
- ·Khám phá những điểm ăn, chơi độc đáo ở xứ sở ngàn hoa Đà Lạt
- ·Hớn Quản có trên 1 ngàn hộ S’tiêng lưu giữ nghề dệt thổ cẩm
- ·Bộ GTVT cho sử dụng kinh phí dự phòng xây trạm dừng nghỉ cao tốc Bắc
- ·Tăng cường các hoạt động văn hóa, văn nghệ những tháng đầu năm